Thời gian nhìn từ những ẩn dụ[1]

                                                             GS TS Nguyễn Đức Dân

 

về trang chủ

 Ẩn dụ quanh ta

Không ít người nghĩ rằng, ẩn dụ dường như chỉ xuất hiện trong thơ văn. Sáng tạo ẩn dụ là phẩm chất đặc biệt của  giới văn chương. Mặt trời được Viễn Phương trong Viếng lăng Bác dùng làm ẩn dụ chỉ Bác Hồ:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng/ Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Nguyễn Khoa Điềm lại dùng  mặt trời làm ẩn dụ cho Cu Tai, đứa con bé nhỏ của người mẹ lên nương: “Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng”.

Với Trần Tiến, mặt trời bé con là ẩn dụ chỉ những cô bé, chú bé  đáng yêu say mê ca nhạc: “Ngoài kia có cô bé nhìn qua khe nghe tiếng  đàn của tôi/ Ngoài kia có chú bé trèo cây me, mắt xoe tròn lắng nghe

Thực ra, như chứng minh của hai nhà ngôn ngữ học G. Lakoff và M. Johnson (1980), ẩn dụ có trong ngôn ngữ đời thường. Ngày ngày chúng ta dùng ẩn dụ và ai  cũng dùng ẩn dụ, những ẩn dụ tri nhận (cognitive metaphor). Những ẩn dụ đã thấm vào mỗi người đến mức chúng ta dùng ẩn dụ mà không biết là mình đang dùng ẩn dụ.   

Cô lái đò của Nguyễn Bính tính đã ba mùa xuân đến (Xuân này đến nữa đã ba xuân,/Đóm lửa tình duyên tắt nguội dần.) Ai cũng đã từng nói những câu như  “Năm cũ sắp qua, năm mới sắp tới, Tết đến, xuân về, nhà nhà chuẩn bị đón xuân sang”, hoặc “Xuân sang, hạ tới, thu qua, đông lại. Và “Thời giờ thấm thoắt thoi đưa/Nó đi, đi mãi có chờ ai đâu”, “Giờ hành động đã đến”.  Bởi chúng ta đã nhận thức một ẩn dụ “Thời gian thì chuyển động.

 Sang xuânxuân sang

Nhiều hiện tượng được giải thích từ những ẩn dụ khác nhau.

Có những cách nói ngược nhau nhưng lại đồng nghĩa: xuân sang sang xuân, tuần sau  tuần tới, tuần trước tuần qua…Ở mỗi cặp trên, vế đầu dùng theo ẩn dụ “thời gian thì chuyển động” còn vế sau lại là ẩn dụ “chúng ta chuyển động trong thời gian” (Thời gian là một không gian). Điều này còn thấy trong những cách nói “Ta đi tới” (thơ Tố Hữu), “Chúng ta đã bước vào thiên niên kỷ mới”, “Vào mùa khô”, “sắp sang xuân”,  đến Tết”, “ra giêng”…  Ngày tháng tăng dần, nghĩa là thời gian đến chúng ta từ phía trước. Tuần lễ đến trước rồi sẽ thành quá khứ và được gọi là tuần trước, tuần lễ đến sau gọi là tuần sau đang còn ở tương lai. Còn như chúng ta chuyển động trong thời gian thì tuần lễ chúng ta đã đi qua (chỉ quá khứ) là tuần qua. Tuần lễ chúng ta sẽ đi tới, tuần tới,  cũng trỏ thời  tương lai, đồng nghĩa với tuần sau. Những đơn vị trỏ thời gian khác  như giờ, ngày, tháng, quý, năm…kết hợp với trước, qua tạo ra những thời đoạn  trong quá khứ, kết hợp với sau, tới tạo ra những thời đoạn  trong tương lai.   

    Trong  tiếng Việt có hiện tượng  rất thú vị là    các từ ngữ không gian chuyển thành các từ ngữ thời gian.  Các từ trước, đây, sau trỏ quan hệ vị trí trong không gian cũng lần lượt được dùng để  miêu tả thời gian xảy ra trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Không những vậy, chúng thành những mốc cho trục thời gian  TRƯỚC – ĐÂY – SAU. Chúng có thể dùng làm điểm nhìn khi nói. Trong câu “Trước đấy ông là thần tượng của tôi. Nhưng một ngày nọ tình cờ tôi phát hiện ông chỉ là kẻ đạo đức giả. Sau này quan hệ giữa chúng tôi nhạt hẳn đi.” Các từ trước đấy, ngày nọ, sau này…đều chỉ các hiện tượng xảy ra trong quá khứ vì người nói đã kéo thời gian về các điểm lấy  làm điểm nhìn đấy,  nọ, này…

Thời gian là một đối tượng chuyển động nên có đầu có cuối: đầu tuần, đầu năm, đầu giờ, cuối buổi… “tới đầu tháng 7 năm sau mới tăng lương”. Đặt trong một phát ngôn thể hiện những hành vi cụ thể, những tổ hợp trên sẽ tạo ra ý nghĩa thời gian cụ thể. Khi nghe “Cuối buổi sáng nay, mời ông quay lại đây”, “Đầu giờ chiều nay, mời ông quay lại đây”…  Việc được  đề nghị, yêu cầu, hay mời làm  thì chưa xảy ra nên “cuối buổi sáng nay”, “Đầu giờ chiều nay” trong những câu trên đều chỉ  thời gian  trong tương lai.

Sao lại là năm ngoái?

Hết một năm hay sắp sang năm mới, người Việt có thói quen điểm lại, tổng kết lại  những sự việc được mất, may rủi trong trong chặng đường đời một năm. Đó là lúc người ta ngoái nhìn lại,  từ  đầu năm tới cuối năm. Vậy là hình thành cách nói năm ngoái, tức là  năm qua. Năm là đơn vị thời gian duy nhất trong cuộc đời  không dài quá nhưng cũng không ngắn quá mà người ta ngoái  nhìn lại.

Ngày, tuần, tháng thì quá ngắn nên  không có cách nói *tháng ngoái, *tuần ngoái, *ngày ngoái. Còn thế kỷ thì quá dài, mấy ai đi qua mốc trăm năm, nên cũng không có *thế kỷ ngoái.

Người Việt lưỡng phân ngày/đêm. Ngày được chia thành những thời đoạn sáng, sớm,  trưa, chiều, tối. Tên chung cho những đơn vị này, tức “loại từ” thời gian, là buổi (trỏ thời gian lao động, làm hay học), bữa (thời gian ăn) và ban. Buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối. Bữa sáng, bữa trưa, bữa chiều,  bữa tối.  Tôi không rõ gốc gác của ban là gì trong những cách nói ban sáng, ban trưa, ban chiều, ban tối, ban đêm.

               Người Việt phân biệt nhiều trạng thái thời gian quá khứ  hơn là trạng thái thời gian  hiện tạitương lai.

          Chúng ta có những 10 từ ấy, nãy, đó, nọ, kia, qua, trước, rồi, ngoái, xưa trong những kết hợp thể hiện thời gian  quá khứ. Nhưng dùng trong những kết hợp chỉ hiện thời hiện tại (và duy nhất giờ đây) chỉ có hai từ này, nay. Trỏ tương lai có sau, tới  nữa (và duy nhất có  phân biệt 3 ngày trong tương lai mai, mốt, kia). Có thể nguyên do là những điều đã biết, đã xảy ra thì dễ thấy  hơn và do vậy dễ phân biệt được nhiều hơn những điều dự đoán.

 



[1] Bài đăng trên Sài gòn tiếp thị , số ngày 09.01.2013